Ca phe che 2

Cà phê chè

Cà phê chè

Ca phe che 1

Cà phê chè là tên gọi theo tiếng Việt của loài cà phê arabica có tên khoa học theo danh pháp hai phần là: Coffea arabica, do loài cà phê này có lá nhỏ, cây có một số đặc điểm hình thái giống như cây chè – một loài cây công nghiệp phổ biến ở Việt Nam. Cà phê chè có hai loại: cà phê moka và cà phê catimor.

Giá trị kinh tế

Ca phe che 2

Đây là loài có giá trị kinh tế nhất trong số các loài cây cà phê. Cà phê chè chiếm 61% các sản phẩm cà phê toàn thế giới. Cà phê arabica còn được gọi là Brazilian Milds nếu nó đến từ Brasil, gọi là Colombian Milds nếu đến từ Colombia, và gọi là Other Milds nếu đến từ các nước khác. Qua đó có thể thấy Brasil và Colombia là hai nước xuất khẩu chính loại cà phê này, chất lượng cà phê của họ cũng được đánh giá cao nhất. Các nước xuất khẩu khác gồm có Ethiopia, México, Guatemala, Honduras, Peru, Ấn Độ.

Phân bổ

Ca phe che 3

Cây cà phê arabica ưa sống ở vùng núi cao. Người ta thường trồng nó ở độ cao từ 1000-1500 m. Cây có tán nhỏ, màu xanh đậm, lá hình oval. Cây cà phê trưởng thành có thể cao từ 4–6 m, nếu để mọc hoang dã có thể cao đến 10 m. Quả hình bầu dục, mỗi quả chứa hai hạt cà phê.

Thu hoạch

Ca phe che 4

Cà phê chè sau khi trồng khoảng 3 đến 4 năm thì có thể bắt đầu cho thu hoạch. Thường thì cà phê 25 tuổi đã được coi là già, không thu hoạch được nữa. Thực tế nó vẫn có thể tiếp tục sống thêm khoảng 70 năm. Cây cà phê arabica ưa thích nhiệt độ từ 16-25°C, lượng mưa khoảng trên 1000 mm.

Thị trường

Ca phe che 5

Trên thị trường cà phê chè được đánh giá cao hơn cà phê vối (coffea canephora hay coffea robusta) vì có hương vị thơm ngon và chứa ít hàm lượng caffein hơn. Một bao cà phê chè (60 kg) thường có giá cao gấp 2 lần một bao cà phê vối.

Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai thế giới nhưng chủ yếu là cà phê vối. Năm 2005 dự kiến diện tích trồng cà phê chè mới đạt khoảng 10% tổng diện tích trồng cà phê cả nước (khoảng 40.000 ha/410.000 ha). Hiện cà phê chè được trồng ở các tỉnh Lâm Đồng ở Tây Nguyên, vùng thành phố Sơn La, huyện Mai Sơn, huyện Thuận Châu (Sơn La) và Mường Ảng (Điện Biên) ở Tây Bắc.

Ca phe nhan 1

Cà phê nhân

Cà phê nhân có mấy loại?

Ca phe nhan 1
Về căn bản, cà phê nhân có hai loại gồm cà phê arabica và cà phê robusta. Cà phê arabica còn được gọi là cafe chè được trồng nhiều tại những nơi có độ cao từ 1.000m trở lên với nền nhiệt mát mẻ và độ chênh nhiệt độ ngày đêm lớn. Arabica thường có bốn chủng phổ biến là Caturra, Bourbon, Mocha, Typica và Catimor.

Khác với arabica, cà phê robusta thường được trồng tại những vùi đồi núi thấp, là loại cà phê ưa nắng với nền nhiệt cao hơn và có khả năng kháng bệnh cao. Ngoài ra, còn có loại café excelsa (còn gọi là cafe mít) cũng được trồng rải rác tại Việt Nam.

Cà phê nhân được phân loại như thế nào?

Ca phe nhan 2

Sau khi xay cafe quả khô, ta thu được cà phê nhân và vỏ thóc cà phê. Các nhân cafe này được gọi chung là café xô vì chưa được phân loại nên có nhân với kích cỡ khác nhau. Tùy theo nhu cầu, của Kh.Hàng, cafe xanh sẽ được sàng để lọc ra các hạt có kích cỡ lớn nhỏ khác nhau.

Các loại chất lượng cao gồm café nhân sàng 16, sàng 18 và sàng 19, sàng 20. Tuy nhiên, sàng 16 và sàng 18 là loại phổ biến nhất để làm cafe hạt rang. Với các sàng nhỏ hơn như sàng 14, sàng 15 có phẩm chất thấp hơn thường được làm vật liệu trộn để giảm giá thành. Hoặc sàng 13, thường được dùng để làm café hòa tan.

Ngoài arabica, robusta và excelsa, đôi khi ta nghe tên gọi café nhân culi. Cà phê culi không phải là một chủng café. Trái lại, culi là nhân cà phê đặc biệt chỉ có một nhân.

Thông thường, một quả café sẽ có hai nhân. Với một số quả cafe đặc biệt, hai nhân này dính vào nhau và tạo thành một nhân duy nhất, gọi là café một nhân hay culi hoặc cà bi (peaberry). Do đó, chúng ta sẽ có culi arabica, culi robusta và culi excelsa.

Đặc điểm của café nhân?

Ca phe nhan 3

Thời gian bảo quản cafe xanh có thể dài mà không bị mất hương vị vì thông thường độ ẩm của nó khá thấp (12% tới 13%). Tùy theo nhu cầu, mà café nhân có thể được đánh bóng hoặc không đánh bóng. Cà phê là loại thức uống được ưa chuộng nên giá trị giao dịch của cà phê nhân hiện tại rất lớn.

Trên T.Trường giao dịch hàng hóa thế giới, café nhân có khối lượng giao dịch chỉ sau dầu lửa. Chúng thường được giao dịch qua sàn giao dịch hàng hóa với nhiều dụng cụ giao dịch phái sinh khác nhau.

Ca phe la gi 2

Cà phê là gì

Cà phê (bắt nguồn từ tiếng Pháp: cafe ) là một loại thức uống được ủ từ hạt café rang, lấy từ quả của cây cà phê. Các giống cây café được bắt nguồn từ vùng nhiệt đới châu Phi và các vùng Madagascar, Comoros, Mauritius và Réunion trên các khu vực thuộc đường xích đạo. Giống cây này được xuất khẩu từ châu Phi tới các nước trên thế giới và hiện nay đã được trồng tại tổng cộng hơn 70 nhà nước, cốt yếu là các khu vực nằm gần đường xích đạo thuộc châu Mỹ, Đông Nam Á, Ấn Độ và châu Phi.

Ca phe la gi 1

Hai giống coffee được trồng phổ biến nhất là coffee chè, và coffee vối. Sau khi chín, quả cà phê sẽ được hái, chế biến theo các cách thức khác nhau, rang, xay và pha với nước. Quy trình chế biến cũng có nhiều dạng như như chế biến khô, chế biến ướt, chế biến mật ong; hạt coffee khô được rang trong nhiều điều kiện nhiệt độ khác nhau từ rang sáng tới rang tối màu; sau khi rang lại được đem đi xay theo các kích cỡ hạt mịn hay thô, và ủ với nước sôi hoặc nước lã, tùy thị hiếu, để tạo ra cà phê dưới dạng thức uống.

Cà phê có ít tính axit và có thể gây kích thích đối với người sử dụng do có chứa hàm lượng cafein. Cà phê ngày nay là một trong những thức uống phổ biến trên thế giới. Thức uống này có thể được chuẩn bị và phục vụ theo nhiều dạng uống khác nhau (ví dụ như espresso, cà phê bình, latte,…). Cafe thường được thưởng thức nóng, dù cà phê đá cũng được nhiều người ưa dùng.

Ca phe la gi 2

Nhiều nghiên cứu lâm sàng cho thấy lượng coffee tiêu thụ trung bình là vừa đủ hoặc có lợi đối với một người lớn khỏe mạnh. Nhiều nhà nghiên cứu cũng đặt câu hỏi về việc sử dụng cafe lâu dài có thể hạn chế chứng suy giảm trí nhớ về già hoặc giảm thiểu khả năng mắc các bệnh ung thư.

Bằng chứng sớm và đáng tin cậy nhất về việc sử dụng coffee được phát hiện vào thế kỷ 15 tại các lăng tẩm Sufi giáo ở Yemen. Cũng tại bán đảo Ả Rập, các hạt cà phê trước hết được rang và ủ theo cách tương tự như cách thức chúng ta vẫn làm ngày nay.

Hạt coffee ban đầu được xuất khẩu từ Đông Phi tới Yemen, do cây café chè lúc đó được cho là có cội nguồn từ người bản địa. Các doanh nhân Yemen đã đem coffee về quê nhà và khởi đầu trồng các hạt giống. Tới thế kỷ 16, café đã được đem tới Persia, Thổ Nhĩ Kỳ và Bắc Phi. Từ đây, coffee được lan rộng khắp châu Âu và phần còn lại của thế giới.

Ca phe la gi 3

Cà phê là một mặt hàng xuất khẩu lớn: đứng đầu trong số các mặt hàng xuất khẩu nông nghiệp tại nhiều nhà nước và là một trong những mặt hàng xuất khẩu nông nghiệp hợp pháp lớn nhất trên thế giới. Đây cũng là loại hàng hóa có giá trị xuất khẩu nhất của các quốc gia đang phát triển. Cafe xanh (không rang) cũng là một trong những mặt hàng nông nghiệp được buôn bán nhiều nhất trên thế giới.

Nhiều tranh biện đã xảy ra xung quanh việc trồng coffee, cách các quốc gia phát triển luận bàn cà phê với các nước đang phát triển và thúc đẩy của việc trồng cà phê đối với môi trường sống, đi kèm với vấn đề tạo đất trống để trồng và phê và sử dụng nước tưới. Cũng nhờ vậy, thị trường cà phê thương mại công bằng và cà phê hữu cơ ngày càng được mở mang.