Dac diem ca phe Mit 2

Đặc điểm cà phê Mít

phê mít, café Cherry hay cafe Liberica (Cà phê Liberian) lần đầu tiên được tìm thấy vào năm 1843 ở LBR, Trung Phi. Được đem đến trồng tại PHL trong thế kỷ 18 bởi người Tây Ban Nha. Cuối thế kỷ 19 cafe Mít còn được đem đến trồng tại IDN để thay thế cho cây Arabica bị tàn phá bởi bệnh gỉ sắt trong thời điểm này. Ngày nay, phần đông các cây cafe Liberica được trồng ở MYS, Indonesia và PHL, một số khác thì được trồng ở Châu Phi và Ấn Độ.

Dac diem ca phe Mit 1

Cây café Mít trưởng thành cao từ 2-5m nhưng có thể cao hơn 15m nếu mọc ở ngoài tự nhiên. Thân, lá và quả đều rất to, khác biệt hẳn cafe vối. Và một trong những đặc điểm nổi trội của giống cafe này là khả năng chống chịu sâu bệnh tốt, chịu hạn, ít cần nước tưới nên thường trồng quảng canh. Cũng chính nhờ những đặc tính “hiếm có” này mà Café Cherry rất được các nhà vườn ưa chuộng, thường sử dụng chúng làm gốc ghép cho các loại cà phê khác.

Dac diem ca phe Mit 2

Một cây cà phê Mít trưởng thành có từ 30.000 – 40.000 hoa, chúng chỉ nở trong 3 – 4 ngày và có đặc điểm ra hoa tại vị trí cũ vào vụ kế tiếp nên vào vụ thu hoạch. Hoa cafe Cherry thường nở đồng loạt, thành chùm màu trắng muốt, hương thơm ngào ngạt.

Dac diem ca phe Mit 3

Về đặc điểm trái thì trái Café Cherry có hình bầu dục, màu vàng sáng bóng rất đẹp, rất dân giã. Chúng có kích thước quả lớn hơn khoảng 1,5 lần kích thước cafe Arabica, được xếp vào giống café có quả lớn nhất hiện thời. Cũng vì điều này, cà phê Cherry sau khi thu hoạch thì cần nhiều thời gian hơn để chế biến hạt cà phê bởi vì vỏ của chúng dày hơn các giống café khác.

Dac diem ca phe Mit 4

Ở Tây nguyên Việt Nam, café Mít thường nở hoa và thu hoạch muộn bởi đặc điểm là hoa nở nhờ nước mưa bởi vậy sau khi các loại café khác đã thu hoạch xong thì café Cherry mới khởi đầu vào vụ mùa của mình, thường là khoảng tháng 12 âm lịch. Tuy vậy nhưng sản lượng của cà phê mít cũng không lớn. Chủ yếu thường được trồng rồng thành hàng với khoảng cách 5-7m một cây, thuần loài hay làm đai rừng chắn gió cho các lô cafe vối.

Ca phe che 2

Cà phê chè

Cà phê chè

Ca phe che 1

Cà phê chè là tên gọi theo tiếng Việt của loài cà phê arabica có tên khoa học theo danh pháp hai phần là: Coffea arabica, do loài cà phê này có lá nhỏ, cây có một số đặc điểm hình thái giống như cây chè – một loài cây công nghiệp phổ biến ở Việt Nam. Cà phê chè có hai loại: cà phê moka và cà phê catimor.

Giá trị kinh tế

Ca phe che 2

Đây là loài có giá trị kinh tế nhất trong số các loài cây cà phê. Cà phê chè chiếm 61% các sản phẩm cà phê toàn thế giới. Cà phê arabica còn được gọi là Brazilian Milds nếu nó đến từ Brasil, gọi là Colombian Milds nếu đến từ Colombia, và gọi là Other Milds nếu đến từ các nước khác. Qua đó có thể thấy Brasil và Colombia là hai nước xuất khẩu chính loại cà phê này, chất lượng cà phê của họ cũng được đánh giá cao nhất. Các nước xuất khẩu khác gồm có Ethiopia, México, Guatemala, Honduras, Peru, Ấn Độ.

Phân bổ

Ca phe che 3

Cây cà phê arabica ưa sống ở vùng núi cao. Người ta thường trồng nó ở độ cao từ 1000-1500 m. Cây có tán nhỏ, màu xanh đậm, lá hình oval. Cây cà phê trưởng thành có thể cao từ 4–6 m, nếu để mọc hoang dã có thể cao đến 10 m. Quả hình bầu dục, mỗi quả chứa hai hạt cà phê.

Thu hoạch

Ca phe che 4

Cà phê chè sau khi trồng khoảng 3 đến 4 năm thì có thể bắt đầu cho thu hoạch. Thường thì cà phê 25 tuổi đã được coi là già, không thu hoạch được nữa. Thực tế nó vẫn có thể tiếp tục sống thêm khoảng 70 năm. Cây cà phê arabica ưa thích nhiệt độ từ 16-25°C, lượng mưa khoảng trên 1000 mm.

Thị trường

Ca phe che 5

Trên thị trường cà phê chè được đánh giá cao hơn cà phê vối (coffea canephora hay coffea robusta) vì có hương vị thơm ngon và chứa ít hàm lượng caffein hơn. Một bao cà phê chè (60 kg) thường có giá cao gấp 2 lần một bao cà phê vối.

Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai thế giới nhưng chủ yếu là cà phê vối. Năm 2005 dự kiến diện tích trồng cà phê chè mới đạt khoảng 10% tổng diện tích trồng cà phê cả nước (khoảng 40.000 ha/410.000 ha). Hiện cà phê chè được trồng ở các tỉnh Lâm Đồng ở Tây Nguyên, vùng thành phố Sơn La, huyện Mai Sơn, huyện Thuận Châu (Sơn La) và Mường Ảng (Điện Biên) ở Tây Bắc.

Ca phe la gi 2

Cà phê là gì

Cà phê (bắt nguồn từ tiếng Pháp: cafe ) là một loại thức uống được ủ từ hạt café rang, lấy từ quả của cây cà phê. Các giống cây café được bắt nguồn từ vùng nhiệt đới châu Phi và các vùng Madagascar, Comoros, Mauritius và Réunion trên các khu vực thuộc đường xích đạo. Giống cây này được xuất khẩu từ châu Phi tới các nước trên thế giới và hiện nay đã được trồng tại tổng cộng hơn 70 nhà nước, cốt yếu là các khu vực nằm gần đường xích đạo thuộc châu Mỹ, Đông Nam Á, Ấn Độ và châu Phi.

Ca phe la gi 1

Hai giống coffee được trồng phổ biến nhất là coffee chè, và coffee vối. Sau khi chín, quả cà phê sẽ được hái, chế biến theo các cách thức khác nhau, rang, xay và pha với nước. Quy trình chế biến cũng có nhiều dạng như như chế biến khô, chế biến ướt, chế biến mật ong; hạt coffee khô được rang trong nhiều điều kiện nhiệt độ khác nhau từ rang sáng tới rang tối màu; sau khi rang lại được đem đi xay theo các kích cỡ hạt mịn hay thô, và ủ với nước sôi hoặc nước lã, tùy thị hiếu, để tạo ra cà phê dưới dạng thức uống.

Cà phê có ít tính axit và có thể gây kích thích đối với người sử dụng do có chứa hàm lượng cafein. Cà phê ngày nay là một trong những thức uống phổ biến trên thế giới. Thức uống này có thể được chuẩn bị và phục vụ theo nhiều dạng uống khác nhau (ví dụ như espresso, cà phê bình, latte,…). Cafe thường được thưởng thức nóng, dù cà phê đá cũng được nhiều người ưa dùng.

Ca phe la gi 2

Nhiều nghiên cứu lâm sàng cho thấy lượng coffee tiêu thụ trung bình là vừa đủ hoặc có lợi đối với một người lớn khỏe mạnh. Nhiều nhà nghiên cứu cũng đặt câu hỏi về việc sử dụng cafe lâu dài có thể hạn chế chứng suy giảm trí nhớ về già hoặc giảm thiểu khả năng mắc các bệnh ung thư.

Bằng chứng sớm và đáng tin cậy nhất về việc sử dụng coffee được phát hiện vào thế kỷ 15 tại các lăng tẩm Sufi giáo ở Yemen. Cũng tại bán đảo Ả Rập, các hạt cà phê trước hết được rang và ủ theo cách tương tự như cách thức chúng ta vẫn làm ngày nay.

Hạt coffee ban đầu được xuất khẩu từ Đông Phi tới Yemen, do cây café chè lúc đó được cho là có cội nguồn từ người bản địa. Các doanh nhân Yemen đã đem coffee về quê nhà và khởi đầu trồng các hạt giống. Tới thế kỷ 16, café đã được đem tới Persia, Thổ Nhĩ Kỳ và Bắc Phi. Từ đây, coffee được lan rộng khắp châu Âu và phần còn lại của thế giới.

Ca phe la gi 3

Cà phê là một mặt hàng xuất khẩu lớn: đứng đầu trong số các mặt hàng xuất khẩu nông nghiệp tại nhiều nhà nước và là một trong những mặt hàng xuất khẩu nông nghiệp hợp pháp lớn nhất trên thế giới. Đây cũng là loại hàng hóa có giá trị xuất khẩu nhất của các quốc gia đang phát triển. Cafe xanh (không rang) cũng là một trong những mặt hàng nông nghiệp được buôn bán nhiều nhất trên thế giới.

Nhiều tranh biện đã xảy ra xung quanh việc trồng coffee, cách các quốc gia phát triển luận bàn cà phê với các nước đang phát triển và thúc đẩy của việc trồng cà phê đối với môi trường sống, đi kèm với vấn đề tạo đất trống để trồng và phê và sử dụng nước tưới. Cũng nhờ vậy, thị trường cà phê thương mại công bằng và cà phê hữu cơ ngày càng được mở mang.